So sánh ưu điểm đắp cứng bề mặt giữa quy trình hàn Plasma bột và hàn Plasma dây.
Giới thiệu về hàn Plasma bột và Plasma dây.
Quá trình hàn
hồ quang plasma sử dụng kim loại điền ở dạng dây được gọi là Hàn hồ
quang Plasma dây (PAW), trong khi đó sử dụng vật liệu điền bằng bột thường được
gọi là Plasma Transferred Arc (PTA).
Quá trình PTA có thể được coi là
một dẫn xuất của quy trình PAW. Điểm tương đồng giữa hai quy trình có thể được
quan sát trong Hình 1.
Cả hai quy trình hàn sử dụng một điện
cực vonfram không nóng chảy được đặt bên trong đầu chụp, một bộ phận làm mát bằng
nước, khí bảo vệ để bảo vệ bề hàn và khí plasma. Sự khác biệt giữa hai quá
trình hàn nằm trong bản chất của vật liệu điền đầy, bột thay vì dây, đòi hỏi một
dòng khí để vận chuyển đến khu vực hồ quang và điền vào bể hàn.
Sơ đồ trong Hình 1 cho thấy hai quá trình với sự khác biệt và
tương đồng của chúng.
Thiết bị cần thiết để thực hiện
quy trình PTA là tương tự như được sử dụng trong PAW. Khi PAW sử dụng, thiết bị
phải có khả năng cấp dây được làm mát của các thiết bị đo khác nhau và các vật
liệu khác nhau, với vận tốc không đổi hoặc xung.
Trong quy trình hàn plasma
PTA, vật liệu hàn được sử dụng ở dạng bột và thiết bị cấp bột. Đối với ứng dụng của nó cho
lớp phủ, quy trình PTA là thích hợp khi nó tạo ra các giá trị pha loãng theo thứ
tự từ 6 đến 10%, thấp hơn nhiều so với quá trình hàn hồ quang khác khoảng 20 đến
25%. Giảm biến dạng, vùng ảnh hưởng nhiệt (VAHN) nhỏ và cấu trúc tế vi cũng ổn
định.
Trong các quy trình PTA và PAW,
khí trơ được sử dụng làm khí plasma, được đi qua lỗ của mỏ hàn, trong đó điện
cực được cố định đồng tâm.
Khí bảo vệ đi qua một lỗ mở bên
ngoài, đồng tâm với vòi phun, bảo vệ hiệu quả mối hàn không bị oxy hóa từ không
khí trong khí quyển (hoạt động hoặc trơ).
Mặt khác, trong quy trình PTA,
khí mang được sử dụng để vận chuyển vật liệu hàn thông qua ống đến vòi phun,
cho phép nó đi vào hồ quang plasma trong một
dạng hội tụ. Khí được sử dụng này
thường là Argon.
Vì điện cực vonfram nằm trong cốc
giới hạn của mỏ hàn, nên khó mở hồ quang bằng tiếp xúc, do đó thiết bị được gọi
là mô-đun plasma được sử dụng để thiết lập mở hồ quang. Một bộ phận đánh lửa điện
tử giữa điện cực vonfram và đầu giới hạn, tạo ra một tia lửa nhỏ trong khu vực
này. Như vậy với sự đi qua của khí plasma, một hồ quang điện cường độ thấp xuất
hiện giữa điện cực và đầu giới hạn, được gọi là hồ quang mồi tạo điều kiện cho
việc thiết lập hồ quang chính, khi có nguồn điện được thêm vào.
Trong thực tế, các tham số kiểm
soát chất lượng của mối hàn bao gồm tốc độ vật liệu được thêm vào, tốc độ
dòng khí (khí bảo vệ, khí plasma, khí mang bột), dòng hàn, đầu mỏ đến khoảng cách
phôi (xem bên dưới) và tốc độ hàn.
Cấu tạo của mỏ hàn được hiển thị trong Hình 2, trong đó các tham
số làm việc trong quá trình được chỉ định. Khoảng cách từ mặt ngoài của mỏ hàn vào
vật hàn được gọi là khoảng làm việc (NWD- Nozzle to Workpiece distance).
Hốc (Rc) của điện cực được đo từ
đầu điện cực đến mặt ngoài của đầu giới hạn mỏ hàn. Sự thay đổi trong các đặc
điểm hồ quang bị ảnh hưởng bởi yếu tố này.
Để có được năng suất hàn tốt, khoảng
cách NWD không được lớn hơn 10 đến 15 mm. Tại các giá trị cao hơn phạm vi này, hiệu
quả của khí bảo vệ bị giảm đáng kể.
Nghiên cứu cho thấy rằng khoảng
cách NWD tăng thì mức độ pha loãng giảm.
Mục tiêu chung của nghiên cứu này
là so sánh quy trình hàn PAW và PTA nhằm ứng dụng vào các hoạt động của
lớp phủ bề mặt, đặc biệt là về tuabin mòn do xâm thực.
Nghiên cứu chỉ ra lợi
ích của quá trình hàn plasma sử dụng bột thay vì dây trong ứng dụng của
lớp phủ. Bề rộng mối hàn, mức độ pha loãng, độ cứng và cấu trúc
vi mô là tốt hơn.
Thực nghiệm so sánh giữa hàn PTA và PAW.
Để tiến hành thực nghiệm này, cả
2 quá trình đều được sử dụng trên thiết bị dựa trên các thông số tương tự được
cài đặt cho quá trình hàn Plasma hồ quang dây và hàn bột. Nguồn hàn được thông
qua một màn hình, đã được kết nối với PC. Bằng một chương trình phần mềm rất
linh hoạt, hầu hết tất cả các tham số quá trình được kiểm soát.
Trong ba dòng khí, nhận được nhiều
sự chú ý nhất là khí plasma liên quan về chất lượng mối hàn. Một bộ điều khiển
lưu lượng lớn khí được sử dụng, trong đó điều khiển được thực hiện bằng điện tử
và tín hiệu lệnh là tham chiếu điện áp. Các dòng lưu lượng khí khác được theo
dõi đơn giản bằng đồng hồ đo lưu lượng điện tử về thể tích.
Một trong những bộ phận cơ bản của
thiết bị là plasma mô-đun, cho phép thực hiện bất kỳ phiên bản hàn plasma nào dựa
trên nguồn hàn thông thường cho GTAW hoặc điện cực tráng. Đối với sự dịch chuyển
của mỏ hàn một thiết bị điện tử đã được sử dụng để cố định đường hàn giữa 2 quy
trình. Tiếp đến là thiết bị cấp bột thiết kế thích ứng cho phép sử dụng các đầu
mỏ giới hạn với các góc hội tụ khác nhau. Mỏ hàn PTA có đường kính giới hạn là
4,8 mm. Trong khi mỏ PAW, nhà sản xuất
cung cấp ba vòi phun với đường kính giới hạn 2,4, 2,8 và 3,2 mm, được thiết kế
theo hàn hiện tại sẽ được áp dụng.
Trong trường hợp này, đường kính
giới hạn lớn nhất có sẵn cho mỏ PAW là 3,2 mm.
Hình 3 thể hiện tổng quát về thiết bị được lắp đặt cho các quy trình hàn PAW và PTA.
Hình 3: Thiết bị thử nghiệm:1 - Nguồn hàn, 2-Mỏ hàn, 3–Plasma
modun, 4–Cấp bột, 5-Hệ thống mỏ, 6-Kiểm soát khí, 7-Van điện, 8-Bình cấp khí
Thông số cài đặt tương tự cho 2 quy trình hàn được cho theo
bảng sau:
Cùng với thành phần hóa học của
mẫu và vật liệu hàn cho Hàn Plasma bột và Plasma dây như hình dưới.
Hình 4: Thông số của mẫu và vật liệu đắp
Các kết quả thu được cho quá trình PTA so với PAW là:
- Diện tích che phủ lớn hơn
-
Độ pha loãng thấp hơn đường hàn có thành phần gần giống với hợp kim của bột hàn.
-
Bề mặt tốt hơn, độ lồi thấp hơn, hợp
nhất giữa nền và hạt hàn.
Hình 5: Hình ảnh bề
ngoài
Thông số: Dòng hàn=160 A, Tốc độ hàn= 20cm/min, Tỉ lệ đắp=
1.4kg/h,
Lưu lượng khí plasma= 2.4 l/min.
Hình 6: Mặt cắt ngang của mối hàn bằng PAW
Lưu lượng khí Plasma:
(a) 2.2 (l/min); (b) 2.4 (l/min); (c) 3.0 (l/min)
Hình 7: Mặt cắt ngang của mối hàn bằng PTA
Lưu lượng khí Plasma:
(a) 2.2 (l/min); (b) 2.4 (l/min); (c) 3.0 (l/min)
Từ kết quả sau khi đo đạc ta có biểu đồ so sánh:
Hình 8: Ảnh hưởng của lưu lượng khí plasma đến biên dạng
và độ ngấu.
Hình 9: Ảnh hưởng của lưu lượng khí plasma đến độ cao
của mối hàn.
Hình ảnh vật liệu sau hàn dưới kính hiển vi điện tử:
Độ cứng bề mặt trong quy trình hàn PAW:
Độ cứng bề mặt trong quy trình hàn PTA:
Kết luận.
Dựa trên các kết quả thí nghiệm thu được trong nghiên cứu
này, các kết luận như sau:
-
Quá trình PTA tạo ra bề mặt hoàn thiện tốt hơn.
-
Chiều rộng
biên dạng hàn lớn hơn trong quy trình PTA (dễ dàng kiểm soát chiều cao lớp đắp).
-
Khi so
sánh mẫu thu được qua hai quy trình, có thể quan sát được rằng sự tham gia của
kim loại gốc luôn thấp hơn trong quy trình PTA. (giảm thiểu biến dạng do nhiệt khi hàn).
-
Mẫu thu
được với quy trình PAW có độ cứng thấp hơn
Nhận xét